Các điểm bất cập khi Chính phủ giảm 2% thuế giá trị gia tăng đối với một số nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp thuế suất 10%

Bàn luận pháp luật

Các điểm bất cập khi Chính phủ giảm 2% thuế giá trị gia tăng đối với một số nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp thuế suất 10%

LexNovum Lawyers

LexNovum Lawyers

14/01/2025

Nhằm thúc đẩy sản xuất, kích thích các hoạt động kinh doanh, đồng thời gia tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, Chính phủ đã quyết định tiếp tục áp dụng chính sách giảm 2% thuế giá trị gia tăng (“GTGT”) đối với một số nhóm hàng hóa, dịch vụ có mức thuế 10%, từ năm 2022 đến nay (“Chính sách giảm thuế”).

Chính sách này đã tạo ra những tác động tích cực đáng kể cho nền kinh tế Việt Nam, góp phần khôi phục và phát triển kinh tế sau đại dịch Covid-19. Song, việc thực hiện Chính sách giảm thuế cũng đặt ra không ít thách thức cho các doanh nghiệp trong quá trình triển khai trên thực tế.

Do đó, trong bài viết này, LNV sẽ tập trung phân tích và bình luận về: i) Thực trạng bất cập và hệ quả khi Chính phủ áp dụng Chính sách giảm thuế và ii) Giải pháp của cơ quan thuế và quan điểm của LNV.

1. Thực trạng bất cập và hệ quả

Chính sách giảm thuế KHÔNG được áp dụng cho tất cả hàng hóa, dịch vụ đang chịu mức thuế suất 10%. Theo đó, Chính phủ đã ban hành Phụ lục danh mục hàng hóa, dịch vụ không được giảm thuế GTGT đính kèm Nghị định 15/2022/NĐ-CP; Nghị định 44/2023/NĐ-CP; Nghị định 72/2024/NĐ-CP và Nghị định 180/2024/NĐ-CP. (Quý Khách hàng có thể tra cứu hàng hóa, dịch vụ áp dụng Chính sách giảm thuế tại đây: Link). Tuy nhiên, các Phụ lục quy định danh mục hàng hóa, dịch vụ không được giảm thuế GTGT lại được xây dựng dựa trên các mã ngành kinh tế Việt Nam theo Quyết định số 43/2018/QĐ-TTg (“Quyết định 43”). Mà, mã ngành kinh tế trong Quyết định 43 chủ yếu được soạn thảo để phục vụ công tác thống kê, quản lý chung nên khi được xem là căn cứ để doanh nghiệp xác định mức thuế GTGT áp dụng cho hàng hóa, dịch vụ cụ thể, nhiều doanh nghiệp gặp rất nhiều bối rối.

Ví dụ như sản phẩm tủ điện phục vụ cho hệ thống phòng cháy, chữ cháy, doanh nghiệp mua vật tư, linh kiện về để sản xuất thành phẩm tủ điện, nhưng mỗi loại vật tư, linh kiện lại có mức thuế GTGT khác nhau (cụ thể: thiết bị cơ khí có thuế suất là 10% nhưng thiết bị đóng cắt (thiết bị điện) lại có thuế suất là 8% …). Vậy, trong trường hợp này, khi kinh doanh sản phẩm tủ điện, doanh nghiệp cần ghi nhận mức thuế GTGT là 8% hay 10%.

Đó cũng chính là câu hỏi của bà Bà Đ.T.H gửi đến Chính phủ. Song, phản hồi thắc mắc trên, Chính phủ chỉ hướng dẫn chung rằng: “Trường hợp công ty bà tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, cung cấp hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất thuế GTGT 10% và không thuộc Phụ lục I, II, III ban hành kèm theo Nghị định số 44/2023/NĐ-CP ngày 30/6/2023 của Chính phủ thì được áp dụng mức thuế suất thuế GTGT 8% từ ngày 1/7/2023 đến hết ngày 31/12/2023 theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 44/2023/NĐ-CP”. (Vui lòng tham khảo nội dung chi tiết tại đây: Link). (Tình huống 1)

Trong tình huống khác, khi gặp khó khăn trong việc xác định mức thuế GTGT, Bà B.T.B.Đ đã gửi câu hỏi đến Bộ Tài Chính. Tương tự như câu trả lời của Chính phủ, Bộ Tài Chính phản hồi như sau:Đề nghị Công ty căn cứ Quyết định số 43/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, đối chiếu mã sản phẩm của hàng hóa, dịch vụ mà Công ty cung cấp với mã sản phẩm của hàng hóa, dịch vụ tại Phụ lục I, II, III ban hành kèm theo Nghị định số 44/2023/NĐ-CP để thực hiện đúng theo quy định.” (Vui lòng tham khảo nội dung chi tiết tại đây:Link). (Tình huống 2)

Hướng dẫn mơ hồ là một chuyện. Hướng dẫn khác nhau, mâu thuẫn nhau lại là một bất cập khác. Đơn cử như trường hợp của Công ty TNHH Millennium Furniture (“Công ty M”) tại Công văn số 9923/CTBDU-TTHT của Cục thuế tỉnh Bình Dương đề ngày 05/4/2024Quyết định số 839/QĐ-CTQNG của Cục thuế tỉnh Quảng Ngãi đề ngày 30/5/2024. Trong trường hợp này, Công ty M có những băn khoăn về mức thuế GTGT áp dụng cho mặt hàng mút, mút xốp. Trả lời Công ty M, Cục thuế tỉnh Bình Dương cho rằng mặt hàng này cần áp dụng mức thuế 10%. Tuy nhiên, Cục thuế tỉnh Quảng Ngãi lại cho rằng “sản phẩm mút xốp các loại không có trong Phụ lục 1 nên được giảm thuế GTGT theo Nghị định 15/2022/NĐ-CP, tức là thuế suất 8%”. (Tình huống 3)

Trong bối cảnh đó, không ít doanh nghiệp đã gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí là nhầm lẫn trong việc xác định mức thuế GTGT chính xác cho nhóm hàng hoá, dịch vụ được giao dịch. Điều này dẫn đến những hệ quả sau:

i) Doanh nghiệp bị từ chối hồ sơ hoàn thuế GTGT

Trong tình huống 3 nêu trên, Cục thuế tỉnh Quảng Ngãi cho rằng vì Công ty M đã xác định sai mức thuế GTGT nên không chấp nhận hồ sơ hoàn thuế của công ty này, từ đó, yêu cầu Công ty M tuân thủ Điều 1.5 Nghị định 15/2022/NĐ-CP (tức Điều 1.5 Nghị định 180/2024/NĐ-CP), cụ thể: “Trường hợp cơ sở kinh doanh đã lập hóa đơn và đã kê khai theo mức thuế suất hoặc mức tỷ lệ % để tính thuế giá trị gia tăng chưa được giảm theo quy định tại Nghị định này thì người bán và người mua xử lý hóa đơn đã lập theo quy định pháp luật về hóa đơn, chứng từ. Căn cứ vào hóa đơn sau khi xử lý, người bán kê khai điều chỉnh thuế đầu ra, người mua kê khai điều chỉnh thuế đầu vào (nếu có).

Như vậy, việc xác định không chính xác mức thuế suất GTGT có thể dẫn các thủ tục hành chính cồng kềnh để điều chỉnh hồ sơ hoàn thuế/khai thuế theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền. Trong một số trường hợp, quá trình này có thể bị kéo dài vì doanh nghiệp mất thêm thời gian trao đổi với đối tác. Thậm chí, nhiều trường hợp quá trình trao đổi bị đứng yên, thậm chí mất dấu vì đối tác không phối hợp hoặc không còn hoạt động trên thực tế…

ii) Thiệt hại khi doanh nghiệp ‘lỡ’ áp dụng sai mức thuế

Về mặt bản chất, thuế GTGT là thuế thu trên người tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ. Người bán/cung ứng dịch vụ chỉ là đơn vị thu hộ Nhà nước. Về phía doanh nghiệp, với vai trò của một bên “thu hộ”, họ bị đặt trong tình thế thu thiếu thì không có gì để bù đắp, nhưng thu dư thì mất uy tín với khách hàng. Đặc biệt là khi doanh nghiệp cung cấp hàng hóa/dịch vụ cho nhiều khách hàng nhỏ, lẻ thì các rủi ro trên càng dễ phát sinh, theo 02 hướng sau:

      • Trường hợp 1 – doanh nghiệp áp dụng mức thuế suất 8% nhưng cơ quan thuế lại xác định mức thuế suất là 10%: Trong bối cảnh này, doanh nghiệp dường như không thể liên hệ với khách hàng để truy thu 2% thuế GTGT của hàng hóa/dịch vụ đã bán/cung cấp. Trong tình thế tiến thoái lưỡng nan, nhiều doanh nghiệp đã phải ngậm ngùi tự bù đắp khoản thuế còn thiếu khi nộp thuế cho cơ quan có thẩm quyền, dẫn đến doanh nghiệp bị thiệt hại đáng kể về mặt kinh tế.
      • Trường hợp 2 – doanh nghiệp áp dụng mức thuế suất 10% nhưng cơ quan thuế lại xác định mức thuế suất cần thu là 8%: Tình huống này thực sự được diễn ra khá nhiều trong giai đoạn đầu chính sách giảm thuế 2% mới được triển khai. Với tinh thần “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”, nhiều doanh nghiệp quyết định giữ nguyên mức thuế 10% cho mọi sản phẩm mình kinh doanh, bất kể sản phẩm đó thuộc nhóm nào. Về lâu dài, phương án này không khả thi vì vấp phải sự phàn nàn, thắc mắc từ khách hàng, giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường của doanh nghiệp, ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình kinh doanh.

2. Giải pháp của cơ quan thuế và quan điểm của LNV

Theo góc nhìn của Tổng cục thuế, trong trường hợp sản xuất, kinh doanh nhiều loại hàng hóa, dịch vụ có mức thuế suất GTGT khác nhau, doanh nghiệp phải kê khai thuế GTGT theo từng mức thuế suất quy định đối với từng loại hàng hóa, dịch vụ; nếu doanh nghiệp không xác định được theo mức thuế suất thì phải tính và nộp thuế theo mức thuế suất cao nhất của hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh (theo Công văn số 5435/TCT-CS ngày 04/12/2023).

Về phía LNV, chúng tôi cho rằng hướng dẫn trên cũng là một giải pháp, nhưng chưa thực sự giải quyết triệt để được các bất cập. Bởi lẽ, giải pháp này chỉ giải quyết được câu chuyện hành chính và mang tính tạm thời chứ không đảm bảo quyền lợi cho doanh nghiệp và các đối tượng chịu thuế GTGT. Doanh nghiệp vẫn bị đặt vào tình thế không thể nộp thuế thiếu, nhưng cũng không thể tính mức thuế cao hơn mức thuế của sản phẩm vì sẽ mất khách hàng.

Hiện nay, theo thời gian áp dụng, một số doanh nghiệp chuyên dịch vụ về kế toán đã cung cấp dịch vụ tra cứu hàng hóa, dịch vụ được giảm thuế GTGT thông qua phần mềm/website. Song, tính pháp lý và độ chắc chắn của các mức thuế này vẫn chưa thực sự được đảm bảo và có khả năng mâu thuẫn với quan điểm của một số cơ quan thuế. LNV khuyến nghị rằng song song với việc tra soát trên các phần mềm trên, doanh nghiệp nên chủ động tham khảo ý kiến của chuyên gia/cơ quan quản lý thuế tại địa phương để tránh phát sinh các rủi ro không đáng có. Trường hợp Quý Khách hàng có nhu cầu tham vấn quan điểm của LNV về việc xác định hàng hóa, dịch vụ được giảm thuế GTGT theo chính sách giảm thuế hiện hành, vui lòng cho chúng tôi biết để có thể hỗ trợ.

Trên đây là ý kiến của LNV về một số bất cập liên quan đến Chính sách giảm thuế trên cơ sở nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành và kinh nghiệm thực tiễn. Hy vọng những thông tin và đề xuất của LNV sẽ hữu ích đối với Quý khách hàng.

Người thực hiện: Phan Nhi, Ngọc Mai

Lưu ý: Bài viết này được thực hiện dựa trên quy định của pháp luật Việt Nam (hiện hành) và kinh nghiệm thực tế. Những thông tin tại bài viết này chỉ nên được sử dụng nhằm mục đích tham khảo. Chúng tôi không chịu trách nhiệm hay có nghĩa vụ pháp lý đối với bất kỳ cá nhân, tổ chức nào sử dụng thông tin tại bài viết này ngoài mục đích tham khảo. Trước khi đưa ra bất kỳ sự lựa chọn hoặc quyết định nào, Quý khách vui lòng tham vấn thêm các khuyến nghị một cách chính thức, hoặc liên hệ LexNovum Lawyers để nhận được sự tư vấn chuyên sâu từ chúng tôi.

Vui lòng trích dẫn nguồn “LexNovum Lawyers” khi sử dụng hoặc chia sẻ bài viết này tại bất kỳ đâu.