Dữ liệu cá nhân là gì?
1. Theo quy định pháp luật hiện hành, thông tin như thế nào được xác định là dữ liệu cá nhân?
Hiện nay, pháp luật Việt Nam đã có quy định cụ thể về khái niệm “dữ liệu cá nhân”. Căn cứ Điều 2.1 Nghị định 13/2023/NĐ-CP (“Nghị định 13”), dữ liệu cá nhân (“DLCN”) được định nghĩa như sau:
“Dữ liệu cá nhân là thông tin dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự trên môi trường điện tử gắn liền với một con người cụ thể hoặc giúp xác định một con người cụ thể. Dữ liệu cá nhân bao gồm dữ liệu cá nhân cơ bản và dữ liệu cá nhân nhạy cảm.”.
Từ khái niệm nêu trên, để xác định một thông tin là DLCN, chúng ta cần xác định 02 thành tố:
(i) Hình thức thể hiện thông tin: Thông tin phải tồn tại dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự trên môi trường điện tử.
(ii) Đối tượng thông tin phản ánh: Thông tin đó phải gắn liền với một con người cụ thể hoặc giúp xác định một con người cụ thể.
Lấy một ví dụ, một bài viết đăng tải thông tin về cá nhân có tên “Nguyễn Văn A”. Với ngữ nghĩa của Điều 2.1 Nghị định 13 nêu trên, thông tin này có thể được xác định là “dữ liệu cá nhân” vì thông tin (i) được thể hiện dưới dạng chữ viết và (ii) gắn liền với một con người cụ thể.
Tuy nhiên, chúng tôi đánh giá rằng cách quy định nêu trên phát sinh một vài vấn đề gây lúng túng khi vận dụng trong thực tế, cụ thể:
– Về hình thức thể hiện thông tin:
Cách quy định hiện tại của Nghị định 13 thể hiện các thông tin thể hiện dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự trên môi trường điện tử sẽ đáp ứng điều kiện để được đánh giá là DLCN, việc quy định “môi trường điện tử” đằng sau của các hình thức được liệt kê trước đó gây ra nhiều cách hiểu. Một trong những cách hiểu đó là các thông tin thể hiện dưới dạng “ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự” trên môi trường KHÔNG điện tử thì sẽ không được xem là DLCN.
– Đối tượng thông tin phản ánh:
Căn cứ quy định tại Nghị định 13, DLCN là thông tin gắn liền với một con người cụ thể hoặc giúp xác định một con người cụ thể, theo đó, các thông tin như họ và tên và số điện thoại gắn liền với một người cụ thể sẽ là DLCN.
Lấy ví dụ cho trường hợp ở phần đầu đề, nếu một bài viết đăng tải có thông tin “Nguyễn Văn A” và ngày sinh, nơi ở của Nguyễn Văn A, các thông tin này khi kết hợp sẽ giúp xác định một con người cụ thể. Theo đó, các thông tin này được xem là DLCN. Song, trường hợp tách riêng các thông tin nêu trên và thể hiện một cách độc lập thì các thông tin này có được xem là DLCN nữa hay không?
Theo quy định hiện tại của Nghị định 13, chúng tôi đánh giá rằng thông tin này vẫn bị xem là DLCN vì chúng vẫn đang gắn liền với một con người cụ thể (cá nhân “Nguyễn Văn A”).
2. Theo quy định mới của Luật bảo về DLCN, thông tin như thế nào được xác định là dữ liệu cá nhân?
Khắc phục được vấn đề được nêu tại mục 1 của bài viết này, khái niệm DLCN đã có sự điều chỉnh phù hợp theo Luật Bảo vệ DLCN 2025. Cụ thể, căn cứ Điều 2.1 Luật Bảo vệ DLCN 2025 quy định “Dữ liệu cá nhân là dữ liệu số hoặc thông tin dưới dạng khác xác định hoặc giúp xác định một con người cụ thể, bao gồm: dữ liệu cá nhân cơ bản và dữ liệu cá nhân nhạy cảm. Dữ liệu cá nhân sau khi khử nhận dạng không còn là dữ liệu cá nhân.”.
Theo đó, sau ngày 01/01/2026, một thông tin được xem là DLCN khi đáp ứng đủ hai thành tố:
(i) Hình thức thể hiện thông tin: Thông tin thể hiện dưới hình thức dữ liệu số hoặc thông tin dưới dạng khác.
Luật Bảo vệ DLCN 2025 đã có sự tiến bộ theo hướng (i) điều chỉnh thống nhất với Luật Dữ liệu 2024 về việc xác định thế nào là dữ liệu số (thay vì quy định liệt kê các hình thức thể hiện DLCN trên môi trường điện tử); và (ii) mở rộng phạm vi các hình thức thể hiện DLCN so với Nghị định 13, theo đó, DLCN không chỉ là dữ liệu trên môi trường số, mà mọi dữ liệu được thể hiện trên mọi hình thức, đều có thể được xem là DLCN nếu đáp ứng điều kiện tiếp theo.
(ii) Đối tượng thông tin phản ánh: Thông tin xác định hoặc giúp xác định một con người cụ thể.
Với điều chỉnh này của Luật Bảo vệ DLCN, một thông tin như tên gọi hoặc ngày sinh hoặc địa chỉ, đứng độc lập thì dù trên thực tế, dù chúng gắn với một con người cụ thể nhưng nếu không đủ để xác định người cụ thể đó là ai (ví dụ: có rất nhiều “Nguyễn Văn A” đang tồn tại, có nhiều người có chung ngày sinh và địa chỉ là thông tin được công khai theo địa chính, trên các ứng dụng bản đồ) thì những thông tin này có thể không được xác định là DLCN.
Trường hợp nội dung bài viết có thể hiện thông tin khác như số điện thoại (đã thực hiện định danh, nếu có) hoặc căn cước công dân của cá nhân, theo quy định nêu trên của Luật Bảo vệ DLCN, các thông tin này là DLCN.
Trên đây là cập nhật pháp lý từ LexNovum Lawyers về các quy định hiện hành và sắp có hiệu lực liên quan đến việc xác định thông tin nào được coi là DLCN.
Người thực hiện: Cộng sự Ngô Bình An
Tham vấn: Luật sư Phan Nhi
Lưu ý:
Bài viết này được thực hiện dựa trên quy định của pháp luật Việt Nam (hiện hành) và kinh nghiệm thực tế. Những thông tin tại bài viết này chỉ nên được sử dụng nhằm mục đích tham khảo. Chúng tôi không chịu trách nhiệm hay có nghĩa vụ pháp lý đối với bất kỳ cá nhân, tổ chức nào sử dụng thông tin tại bài viết này ngoài mục đích tham khảo. Trước khi đưa ra bất kỳ sự lựa chọn hoặc quyết định nào, Quý khách vui lòng tham vấn thêm các khuyến nghị một cách chính thức, hoặc liên hệ LexNovum Lawyers để nhận được sự tư vấn chuyên sâu từ chúng tôi.
Vui lòng trích dẫn nguồn “LexNovum Lawyers” khi sử dụng hoặc chia sẻ bài viết này tại bất kỳ đâu.