Đôi điều về chủ sở hữu hưởng lợi theo Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi

Bản tin pháp luật

Đôi điều về chủ sở hữu hưởng lợi theo Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi

LexNovum Lawyers

LexNovum Lawyers

15/04/2025

Hiện tại, Bộ Tài chính đang xây dựng Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (“Dự thảo”). Với nhiều nội dung được điều chỉnh so với pháp luật doanh nghiệp hiện hành, Dự thảo dự kiến sẽ tạo ra những tác động không nhỏ đối với cộng đồng doanh nghiệp trên cả nước. Quý khách hàng có thể tìm hiểu thêm về các điểm thay đổi trong Bảng so sánh Luật Doanh nghiệp 2020 và Dự thảo tại đây.

Một trong những điểm mới nổi bật trong Dự thảo lần này là các quy định liên quan đến “Chủ sở hữu hưởng lợi” (“CSHHL”) – một khái niệm còn tương đối mới mẻ nhưng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc minh bạch hóa sở hữu doanh nghiệp và phòng, chống các hành vi vi phạm như rửa tiền hay trốn thuế.

Vậy “Chủ sở hữu hưởng lợi” là ai? Vì sao khái niệm này lại được đưa vào Dự thảo và những quy định này sẽ ảnh hưởng ra sao đến hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai?

Trong bài viết dưới đây, LexNovum Lawyers (“LNV”) sẽ làm rõ khái niệm cũng như những tác động của quy định về CSHHL đến doanh nghiệp để chủ động chuẩn bị cho những thay đổi sắp tới.

1. Khái niệm “Chủ sở hữu hưởng lợi”

1.1. Quy định pháp luật Việt Nam

Cụm từ “Chủ sở hữu hưởng lợi” trước nay chưa từng được nhắc đến trong quy định của Luật Doanh nghiệp.

Tuy nhiên, cụm từ này đã được định nghĩa và ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam thông qua Luật Phòng, chống rửa tiền. Cụ thể, tại Điều 3.7 Luật Phòng, chống rửa tiền 2022 giải thích CSHHL là “cá nhân có quyền sở hữu trên thực tế một hoặc một số tài sản, có quyền chi phối khách hàng thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản cho cá nhân này; là cá nhân có quyền chi phối một pháp nhân hoặc một thỏa thuận pháp lý.”

Theo đó, Điều 7.2 Nghị định 19/2023/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền quy định về tiêu chí xác định CSHHL đối với tổ chức như sau:

2. Đối tượng báo cáo xác định chủ sở hữu hưởng lợi đối với khách hàng tổ chức như sau:

a) Đối tượng báo cáo xác định cá nhân thực tế nắm giữ trực tiếp hoặc gián tiếp từ 25% vốn điều lệ trở lên của tổ chức đó hoặc cá nhân cuối cùng có quyền chi phối đối với khách hàng là tổ chức;

b) Trường hợp không xác định được cá nhân theo quy định tại điểm a khoản này, đối tượng báo cáo xác định ít nhất một người đại diện theo pháp luật của tổ chức, trừ trường hợp cá nhân đại diện vốn nhà nước trong tổ chức;

c) Trường hợp tổ chức là doanh nghiệp đã niêm yết trên các thị trường chứng khoán trong nước và nước ngoài, đồng thời thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi của tổ chức đã được công bố, đối tượng báo cáo xác định chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân được công bố đó.

Theo quy định hiện hành, tiêu chí xác định CSHHL đối với tổ chức là (i) cá nhân thực tế nắm giữ trực tiếp hoặc gián tiếp từ 25% vốn điều lệ trở lên của tổ chức đó, hoặc (ii) cá nhân cuối cùng có quyền chi phối đối với tổ chức.

Đối chiếu các tiêu chí trên với quy định tại Dự thảo, LNV nhận thấy Dự thảo đã bổ sung thêm một tiêu chí mới, cụ thể, Điều 4.37 Dự thảo quy định:

Chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp có tư cách pháp nhân là cá nhân có một trong các tiêu chí sau:

a) Cá nhân thực tế nắm giữ trực tiếp hoặc gián tiếp sở hữu từ 25% vốn điều lệ trở lên của doanh nghiệp;

b) Cá nhân trực tiếp hoặc gián tiếp được hưởng hơn 25% cổ tức hoặc lợi nhuận của doanh nghiệp;

c) Cá nhân cuối cùng có quyền chi phối doanh nghiệp.”

Như vậy, ngoài 02 tiêu chí tương tự như quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền thì Dự thảo đã bổ sung thêm tiêu chí để xác định CSHHL là “cá nhân trực tiếp hoặc gián tiếp được hưởng hơn 25% cổ tức hoặc lợi nhuận của doanh nghiệp”.

1.2. Quy định pháp luật nước ngoài

Trên thế giới, nhiều quốc gia đã quy định về CSHHL như Anh, Úc, Canada,… Tại Hoa Kỳ, khái niệm CSHHL (Beneficial Ownership – BO) đã được áp dụng từ sớm, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính và thị trường chứng khoán như một công cụ quan trọng để kiểm soát rủi ro và đảm bảo minh bạch, phòng ngừa các hành vi rửa tiền, trốn thuế.

Các quy định giải thích về CSHHL của Hoa Kỳ cụ thể như sau:

– Theo Điều §5336(a)(3) của Đạo luật Công bố thông tin công ty (Corporate Transparency Act – CTA), CSHHL là cá nhân – bằng thỏa thuận hợp đồng hoặc hình thức tương tự hợp đồng – thực hiện quyền kiểm soát đáng kể đối với công ty hoặc sở hữu/kiểm soát không ít hơn 25% quyền sở hữu của công ty. CSHHL không bao gồm: trẻ vị thành niên; người đại diện theo ủy quyền của cá nhân khác.

– Theo Điều §1010.230(d) Đạo luật Bảo mật Ngân hàng (Bank Secrecy Act – BSA), CSHHL là cá nhân trực tiếp hoặc gián tiếp sở hữu ít nhất 25% lợi ích vốn của công ty; hoặc cá nhân duy nhất chịu trách nhiệm quan trọng trong việc kiểm soát, quản lý hoặc điều hành công ty; hoặc người ủy thác của Quỹ tín thác sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp 25% cổ phần của một khách hàng là pháp nhân.

– Theo Đạo luật Giao dịch Chứng khoán (Security Exchange Act) 1934:

  • Section 13(d) và 13(g): Định nghĩa CSHHL là bất kỳ cá nhân hoặc nhóm nào nắm giữ trên 5% cổ phần có quyền biểu quyết của một công ty đại chúng. CSHHL trong trường hợp này phải nộp báo cáo về việc sở hữu cổ phần của mình.
  • Section 13(a)(1): Mọi cá nhân trực tiếp hoặc gián tiếp là CSHHL sở hữu trên 10% bất kỳ loại cổ phần nào (trừ cổ phiếu được miễn trừ) được đăng ký theo Điều 12 hoặc là giám đốc hoặc cán bộ của người phát hành chứng khoán đó phải nộp các báo cáo theo yêu cầu của tiểu mục này với Ủy ban.

Ngoài ra, Quý Khách hàng cũng có thể tham khảo thêm định nghĩa về CSHHL của một số quốc gia tại đây.

2. Vì sao quy định về CSHHL được đưa vào Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi? 

Theo Tờ trình Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (gửi Bộ Tư pháp để phục vụ công tác thẩm định), Việt Nam trên thực tế đã xuất hiện nhiều trường hợp “núp bóng sở hữu”, các tổ chức, cá nhân kiểm soát doanh nghiệp thiếu minh bạch, lạm dụng việc kiểm soát doanh nghiệp để thực hiện các hành vi tham nhũng, rửa tiền và các hành vi vi phạm pháp luật khác.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã tham gia nhiều cam kết quốc tế liên quan đến vấn đề CSHHL. Cụ thể, năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Nhóm Châu Á – Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG). Với tư cách thành viên, Việt Nam đã tham gia các vòng đánh giá đa phương theo phương pháp luận của APG, dựa trên 40 Khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF). Liên Hợp Quốc, Quỹ tiền tệ quốc tế, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, Diễn đàn đăng ký kinh doanh thế giới và các tổ chức, định chế quốc tế đều công nhận Khuyến nghị của FATF là chuẩn mực toàn cầu về phòng, chống rửa tiền, và lồng ghép vào nhiều văn kiện, tuyên bố và thỏa thuận quốc tế. Trong tiến trình hội nhập, Việt Nam có nghĩa vụ tuân thủ các khuyến nghị này.

Theo kết quả tại Báo cáo đánh giá đa phương về công tác phòng, chống rửa tiền (PCRT), Việt Nam đã bị đưa vào quy trình rà soát tăng cường và quy trình rà soát các nước có thiếu hụt nghiêm trọng của FATF trong thời hạn 01 năm (từ tháng 3/2022 – 3/2023).

Ngày 30/6/2023, FATF đã chính thức đưa Việt Nam vào Danh sách giám sát tăng cường (còn được gọi là “Danh sách Xám”). Theo đó, Việt Nam buộc phải thực hiện một loạt hành động khắc phục theo yêu cầu của FATF trong khoảng thời gian hai năm, kéo dài đến tháng 5/2025. Một trong các hành động được FATF đề cập là “Xây dựng cơ chế cung cấp cho các cơ quan có thẩm quyền truy cập kịp thời vào các thông tin đầy đủ, chính xác và cập nhật về CSHHL của pháp nhân (và thỏa thuận pháp lý nếu phù hợp) và áp dụng các biện pháp xử lý một cách phù hợp, hiệu quả, tương xứng và có tính chất răn đe đối với các hành vi vi phạm”.

Gần đây, FATF và APG đã cảnh báo rằng nếu Việt Nam không có các biện pháp cải thiện trong việc thực thi các cam kết thì sẽ bị đưa vào “Danh sách Đen”. Việc này sẽ kéo theo những hệ lụy nghiêm trọng, đặc biệt đối với doanh nghiệp và tổ chức tài chính, như: Việt Nam sẽ bị cấm thành lập chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại nước ngoài, các chi nhánh, công ty con của tổ chức tài chính Việt Nam tại nước ngoài sẽ chịu sự tăng cường kiểm tra, giám sát; dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam có thể sẽ giảm sút.

Theo Báo cáo đánh giá về môi trường kinh doanh của Ngân hàng Thế giới (WB) công bố vào tháng 10/2024, Việt Nam xếp hạng 29/50 quốc gia, vùng lãnh thổ về chỉ số gia nhập thị trường. Điều này là do Việt Nam chưa có quy định về việc thu thập thông tin CSHHL của doanh nghiệp, do vậy, các tiêu chí liên quan đến nội dung này không được đánh giá.[1]

Từ những lý do trên, việc bổ sung quy định về công bố thông tin CSHHL – là cần thiết và cấp bách. Đây là bước đi quan trọng nhằm cải thiện môi trường kinh doanh và thể hiện cam kết của Việt Nam trong thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.

3. Những tác động đến doanh nghiệp

Việc bổ sung các quy định liên quan đến CSHHL trong Dự thảo đã đặt ra những trách nhiệm và nghĩa vụ pháp lý cụ thể cho doanh nghiệp trong việc thu thập, quản lý, lưu trữ và báo cáo thông tin về CSHHL, cụ thể:

  • Doanh nghiệp có nghĩa vụ thu thập, cập nhật, lưu trữ thông tin về CSHHL và trách nhiệm trong kê khai thông tin CSHHL (Điều 1.3 Dự thảo).
  • Doanh nghiệp phải lưu giữ các tài liệu và thông tin về CSHHL của doanh nghiệp tại trụ sở chính hoặc địa điểm khác được quy định trong Điều lệ công ty. Thông tin về tất cả các CSHHL phải được lưu trữ trong suốt quá trình hoạt động. Trường hợp doanh nghiệp giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động, cá nhân là người đại diện theo pháp luật phải có trách nhiệm lưu trữ các thông tin về CSHHL ít nhất 05 năm kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định giải thể, phá sản chấm dứt hoạt động doanh nghiệp (Điều 1.4 Dự thảo).
  • Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có trách nhiệm thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho doanh nghiệp về doanh nghiệp mà mình, người có liên quan của mình làm chủ hoặc là CSHHL, có cổ phần, phần vốn góp theo quy định; cung cấp chính xác, đầy đủ các thông tin về CSHHL của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật và hợp tác với cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu để xác định CSHHL của doanh nghiệp (Điều 1.5 Dự thảo).
  • CSHHL của doanh nghiệp có trách nhiệm cung cấp chính xác, đầy đủ các thông tin của mình cho doanh nghiệp để thực hiện nghĩa vụ kê khai thông tin về CSHHL theo quy định của pháp luật (Điều 1.6 Dự thảo).
  • Nội dung cổ phiếu phải có đủ các thông tin quy định (cấm việc phát hành cổ phiếu vô danh) (Điều 1.25 Dự thảo).
  • Doanh nghiệp phải thông báo với Cơ quan đăng ký kinh doanh khi có thay đổi thông tin về CSHHL (Điều 1.11 Dự thảo).
  • Đối với các doanh nghiệp được thành lập trước thời điểm Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) có hiệu lực thì việc kê khai bổ sung thông tin CSHHL doanh nghiệp được thực hiện đồng thời tại thời điểm doanh nghiệp tiến hành thủ tục đăng ký thay đổi nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc thủ tục thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp (Điều 1.11 Dự thảo).
  • Doanh nghiệp báo cáo, cung cấp thông tin khi cơ quan đăng ký kinh doanh có quyền yêu cầu nhằm phục vụ việc xác minh, đối chiếu thông tin CSHHL (Điều 1.34 Dự thảo).

Vui lòng lưu ý rằng tính đến nay, các quy định này hiện vẫn đang ở giai đoạn dự thảo và chưa chính thức có hiệu lực. Song, doanh nghiệp cần chủ động theo dõi, nắm bắt sớm những nội dung được đề xuất sửa đổi để có sự chuẩn bị phù hợp. Việc sớm cập nhật và thực hiện đúng, đầy đủ các nghĩa vụ liên quan đến thông tin về CSHHL ngay từ khi quy định được ban hành sẽ giúp doanh nghiệp đảm bảo tính tuân thủ và minh bạch trong quản trị, hạn chế rủi ro pháp lý.

Trên đây là một số thông tin cập nhật về quy định CSHHL trong Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp nhằm giúp Quý khách hàng nắm bắt kịp thời và chủ động chuẩn bị cho những thay đổi sắp tới. LNV sẽ tiếp tục theo dõi và cập nhật đến Quý khách hàng khi có thông tin mới.

Người thực hiện: Phan Nhi, Hoàng Vy

Lưu ý:

Bài viết này được thực hiện dựa trên quy định của pháp luật Việt Nam (hiện hành) và kinh nghiệm thực tế. Những thông tin tại bài viết này chỉ nên được sử dụng nhằm mục đích tham khảo. Chúng tôi không chịu trách nhiệm hay có nghĩa vụ pháp lý đối với bất kỳ cá nhân, tổ chức nào sử dụng thông tin tại bài viết này ngoài mục đích tham khảo. Trước khi đưa ra bất kỳ sự lựa chọn hoặc quyết định nào, Quý khách vui lòng tham vấn thêm các khuyến nghị một cách chính thức, hoặc liên hệ LexNovum Lawyers để nhận được sự tư vấn chuyên sâu từ chúng tôi. 

Vui lòng trích dẫn nguồn “LexNovum Lawyers” khi sử dụng hoặc chia sẻ bài viết này tại bất kỳ đâu.

[1] Bộ Tài chính (2025), Dự thảo Tờ trình Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (gửi Bộ Tư pháp để phục vụ công tác thẩm định), tr. 8-9. Tham khảo tại: [https://vibonline.com.vn/du_thao/du-thao-luat-doanh-nghiep-3].