[Bình luận bản án] Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện do ghi nhận nợ vào Báo cáo tài chính
Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự nói chung được hiểu là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, nếu thời hạn đó kết thúc thì chủ thể mất quyền khởi kiện. Thời hiệu khởi kiện không chỉ có ý nghĩa đối với bên có quyền khởi kiện mà còn có ý nghĩa đối với bên bị kiện khi chỉ cho phép bên có quyền khởi kiện được khởi kiện trong một giới hạn thời gian nhất định (trừ một số trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện) nhằm tránh trường hợp chậm trễ trong việc khởi kiện có thể làm tổn hại lớn đến khả năng của bên bị kiện trong việc tự bảo vệ, phản bác yêu cầu khởi kiện của bên khởi kiện, ví dụ theo thời gian, người làm chứng có thể không còn hay các chứng cứ bị huỷ hoặc thất lạc…[1]
Dù vậy, pháp luật cũng có đặt ra một số trường hợp mà theo đó thời hiệu khởi kiện sẽ được bắt đầu lại, được quy định cụ thể tại Điều 157 Bộ luật Dân sự 2015 (“BLDS 2015”), trong đó có trường hợp “Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện”. Liên quan đến trường hợp này, LexNovum Lawyers có tìm thấy Bản án phúc thẩm số 191/2025/KDTM-PT ngày 20/6/2025 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc Tranh chấp hợp đồng thi công (“Bản án”), trong đó Toà án phúc thẩm đã cho rằng thời hiệu khởi kiện được bắt đầu lại do bên có nghĩa vụ đã thừa nhận nghĩa vụ thanh toán đối với bên khởi kiện do có ghi nhận công nợ vào báo cáo tài chính (“BCTC”).
1. Tóm tắt bản án
1.1. Tình huống chính
Sau khi hết thời hiệu khởi kiện, Trường T (bên bị kiện/bị đơn) có 02 lần gửi văn bản đề nghị Công ty C (bên khởi kiện/nguyên đơn) xác nhận khoản nợ của Trường T đối với Công ty C với số tiền 3.845.755.611 đồng, với nội dung:
a. Thư xác nhận phải trả nhà cung cấp (ngày 19/4/2018):
“….BCTC của chúng tôi đã phản ánh số dư liên quan đến Quý vị tại ngày 31/12/2017 như sau: Số tiền chúng tôi phải trả là: 3.845.755.611 đồng… Nhằm mục đích soát xét BCTC của chúng tôi, rất mong Quý vị xác nhận tính đúng đắn của số dư nêu trên …..”
b. Thư xác nhận công nợ (không ghi ngày tháng năm):
“…BCTC của chúng tôi đã phản ánh số dư liên quan đến công nợ của chúng tôi với Quý vị tại ngày 31/12/2020 …tổng cộng 3.845.755.611 đồng. Nhằm mục đích soát xét BCTC của chúng tôi, rất mong Quý vị xác nhận tính đúng đắn của số dư nêu trên…”.
1.2. Quan điểm của Toà án phúc thẩm
a. Toà án cho rằng việc phát hành 02 văn bản đề nghị xác nhận khoản nợ không xuất phát từ ý chí tự nguyện hay nhằm mục đích thoả thuận xác nhận khoản nợ phải trả của Trường T cho Công ty C. Theo trình bày của Trường T thì do 02 hợp đồng với Công ty C chưa được quyết toán và thanh lý hoàn tất nên trong BCTC phải thể hiện công nợ của 02 hợp đồng. Mặc dù Trường T chưa thừa nhận khoản tiền trên là giá trị còn phải thanh toán cho Công ty C nhưng việc ghi nhận có công nợ vào BCTC đã thể hiện sự thừa nhận của Trường T về việc Trường T còn tồn tại nghĩa vụ thanh toán của các hợp đồng chưa được giải quyết dứt điểm trong nhiều năm (cụ thể tồn đọng từ năm 2014 đến năm 2020).
Như vậy, có căn cứ để áp dụng quy định tại Điều 157.1.a BLDS 2015 để xác định thời hiệu khởi kiện được bắt đầu lại, cụ thể theo trường hợp: “Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện”.
b. Về thời điểm bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện, Toà án xác định là kể từ thời điểm Trường T phát hành văn bản đề nghị Công ty C xác nhận khoản nợ. Theo đó, căn cứ Điều 157.2 BLDS 2015 thì thời hiệu khởi kiện bắt đầu lại kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra sự kiện theo quy định tại Điều 157.1 BLDS 2015. Do vậy, thời hiệu khởi kiện được tính lại như sau:
- Theo “Thư xác nhận phải trả nhà cung cấp” ngày 19/4/2018: tính lại từ ngày 20/4/2018; đến ngày nguyên đơn nộp đơn khởi kiện, ngày 14/3/2023 là đã quá thời hạn 03 năm nên hết thời hiệu khởi kiện;
- Theo “Thư xác nhận công nợ” không ghi ngày tháng năm nhưng có nội dung về việc xác nhận số dư liên quan đến công nợ tại ngày 31/12/2020: áp dụng quy định của Điều 146 BLDS 2015 về thời điểm tính thời hạn để xác định thời hiệu khởi kiện được tính lại kể từ ngày 01/01/2021; đến ngày nguyên đơn nộp đơn khởi kiện, ngày 14/3/2023 là còn trong thời hạn 03 năm nên còn thời hiệu khởi kiện.
2. Bình luận pháp lý
2.1. Việc ghi nhận công nợ vào báo cáo tài chính có đồng nghĩa với thừa nhận nợ?
Theo pháp luật về kế toán, BCTC được hiểu là hệ thống thông tin kinh tế, tài chính của đơn vị kế toán, được lập và trình bày theo đúng quy định chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán (Điều 3.1 Luật Kế toán hiện hành). Theo quy định tại Mục 18.b Chuẩn mực kế toán số 01 – Chuẩn mực chung thì “Nợ phải trả” được hiểu là nghĩa vụ hiện tại của doanh nghiệp phát sinh từ các giao dịch và sự kiện đã qua mà doanh nghiệp phải thanh toán từ các nguồn lực của mình. Đối chiếu vào vụ án này, có thể hiểu rằng Trường T đã xem khoản tiền 3.845.755.611 đồng là nghĩa vụ của Trường T phát sinh từ các giao dịch với Công ty C mà Trường T phải thanh toán từ các nguồn lực của mình nên mới ghi nhận thành khoản nợ phải trả trên BCTC của Trường T.
Do đó, chúng tôi cho rằng việc Toà án phúc thẩm nhận định Trường T đã thừa nhận nợ do đã ghi nhận công nợ vào BCTC là phù hợp, do đó có căn cứ để bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện theo Điều 157.1.a BLDS 2015.
2.2. Xác định thời điểm thừa nhận nợ?
Để xác định thời điểm thừa nhận nợ làm cơ sở tính thời điểm bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện trong vụ án này, chúng tôi cho rằng cần phải trả lời được câu hỏi “Thời điểm gần nhất mà Trường T thừa nhận nợ là khi nào?”. Trong vụ án này, việc thừa nhận nợ được Toà án phúc thẩm xác định là do Trường T có ghi nhận khoản nợ vào BTCT, còn việc gửi 02 văn bản đề nghị xác nhận nợ chỉ là hành vi pháp lý đơn phương không do sự tự nguyện hay thoả thuận việc trả nợ. Tuy nhiên, khi xác định thời điểm thừa nhận nợ, Toà án không căn cứ vào BCTC mà lại dựa vào thời điểm phát hành 02 văn bản đề nghị xác nhận nợ. Điều này dẫn đến sự chưa rõ ràng trong quan điểm của Toà án trong việc xác định đâu mới là sự thừa nhận nợ: BCTC hay văn bản đề nghị xác nhận nợ?
Theo quan điểm của chúng tôi, vì việc thừa nhận nợ là do ghi nhận khoản nợ vào BCTC, nên cần xác định thời điểm thừa nhận nợ trong vụ án này theo thời điểm gần nhất mà Trường T thừa nhận khoản nợ trên BCTC. Theo đó, nếu BCTC ghi nhận khoản nợ đến 31/12/2020 thì thời điểm thừa nhận nợ là 31/12/2020. Việc này sẽ công bằng hơn cho bên có nghĩa vụ khi tính thời điểm bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vì việc gửi văn bản đề nghị đối tác xác nhận nợ không xuất phát từ ý chí tự nguyện hay để thoả thuận trả nợ, mà theo yêu cầu của đơn vị kiểm toán – là một trong các nghĩa vụ mà đơn vị được kiểm toán phải thực hiện theo quy định tại Điều 39.2 Luật Kiểm toán độc lập 2011.
3. Khuyến nghị
Các chủ thể khi tham gia vào giao dịch dân sự nói chung nên lưu ý quy định pháp luật về thời hiệu khởi kiện để tránh mất quyền khởi kiện. Bên cạnh đó, cần lưu ý đến các trường hợp bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện được quy định tại Điều 157 BLDS 2015 để chủ động lưu giữ các bằng chứng để chứng minh việc bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện khi cần thiết.
Ngoài ra, đối với bên có nghĩa vụ, cần đảm tính chính xác và có cơ sở của các số liệu được thể hiện trên BCTC nói chung và khoản nợ phải trả nói riêng. Lưu ý rằng một khi bên có nghĩa vụ đã công nhận nghĩa vụ với đối tác và ghi nhận thành khoản nợ vào BCTC thì sẽ phát sinh trách nhiệm của bên có nghĩa vụ đối với khoản nợ này, và đây có thể là cơ sở để cơ quan tài phán có thẩm quyền xác định bên có nghĩa vụ đã thừa nhận nợ và trở thành căn cứ để bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện.
Xem toàn văn bản án tại: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta1848119t1cvn/chi-tiet-ban-an
Thực hiện: Luật sư Cai Thị Ánh Tuyết
Lưu ý: Bài viết này được thực hiện dựa trên quy định của pháp luật Việt Nam (hiện hành). Những thông tin tại bài viết này chỉ nên được sử dụng nhằm mục đích tham khảo. Chúng tôi không chịu trách nhiệm hay có nghĩa vụ pháp lý đối với bất kỳ cá nhân, tổ chức nào sử dụng thông tin tại bài viết này ngoài mục đích tham khảo. Trước khi đưa ra bất kỳ sự lựa chọn hoặc quyết định nào, Quý khách vui lòng tham vấn thêm các khuyến nghị một cách chính thức, hoặc liên hệ LexNovum Lawyers để nhận được sự tư vấn chuyên sâu từ chúng tôi.
Vui lòng trích dẫn nguồn “LexNovum Lawyers” khi sử dụng hoặc chia sẻ bài viết này tại bất kỳ đâu.
————-
[1] Tác giả Lê Mạnh Hùng. (2021). “Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự – một góc nhìn khác”. Truy cập ngày 12/8/2025, từ: https://tapchitoaan.vn/thoi-hieu-khoi-kien-vu-an-dan-su-mot-goc-nhin-khac