Bảo đảm an ninh thông tin trên không gian mạng

Bản tin pháp luật

Bảo đảm an ninh thông tin trên không gian mạng

Huỳnh Thị Kim Oanh

Huỳnh Thị Kim Oanh

03/10/2022

Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định 53/2022/NĐ-CP quy định chi tiết Luật an ninh mạng, có hiệu lực từ ngày 1/10/2022 (“Nghị định 53”). Theo đó, Nghị định 53 đã hướng dẫn nhiều nội dung, trong đó cần lưu ý 2 vấn đề sau:  

1. Những dữ liệu trên không gian mạng phải lưu trữ tại Việt Nam

Hiện nay, dữ liệu trên không gian mạng ở nước ta đã và đang bị sử dụng tràn lan với mục đích lợi nhuận. Để kiểm soát chặt chẽ, bảo vệ nghiêm ngặt dữ liệu người dùng của Việt Nam trên không gian mạng, Luật an ninh mạng đã quy định doanh nghiệp trong nước, ngoài nước cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng Internet, các dịch vụ gia tăng trên không gian mạng tại Việt Nam có hoạt động thu thập, khai thác, phân tích, xử lý dữ liệu về thông tin cá nhân, dữ liệu về mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ, dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra phải lưu trữ dữ liệu này tại Việt Nam trong khoảng thời gian theo quy định của chính phủ. Như vậy, việc lưu trữ dữ liệu tại Việt Nam chỉ áp dụng với một số nhóm đối tượng liệt kê như trên, không phải áp dụng với tất cả doanh nghiệp.

Cụ thể hóa quy định trên của Luật an ninh mạng, Nghị định 53 đã làm rõ 3 loại dữ liệu cần phải lưu trữ tại Việt Nam gồm:

  • Dữ liệu về thông tin cá nhân của người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam;
  • Dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra: Tên tài khoản sử dụng dịch vụ, thời gian sử dụng dịch vụ, thông tin thẻ tín dụng, địa chỉ thư điện tử, địa chỉ mạng (IP) đăng nhập, đăng xuất gần nhất, số điện thoại đăng ký được gắn với tài khoản hoặc dữ liệu;
  • Dữ liệu về mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam: bạn bè, nhóm mà người sử dụng kết nối hoặc tương tác.

Hình thức lưu trữ dữ liệu tại Việt Nam được Nghị định 53 trao cho doanh nghiệp quyết định. Tuy nhiên, thời gian lưu trữ dữ liệu này bắt đầu từ khi doanh nghiệp nhận được yêu cầu lưu trữ dữ liệu đến khi kết thúc yêu cầu, tối thiểu là 24 tháng.

2. Các trường hợp yêu cầu xóa bỏ thông tin trên mạng Internet từ 1/10/2022

Điều 19 Nghị định 53 đã nêu ra các trường hợp yêu cầu phải xóa bỏ thông tin đã đăng tải trên mạng Internet gồm:

  • Khi thông tin trên không gian mạng được cơ quan có thẩm quyền xác định là có nội dung xâm phạm an ninh quốc gia, tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng theo quy định của pháp luật.
  • Khi có căn cứ pháp luật xác định thông tin trên không gian mạng có nội dung làm nhục, vu khống; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; bịa đặt, sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại nghiêm trọng cho hoạt động kinh tế – xã hội đến mức phải yêu cầu xóa bỏ thông tin.
  • Các thông tin trên không gian mạng khác có nội dung được quy định tại điểm c, điểm đ, điểm e khoản 1 Điều 8 Luật An ninh mạng, cụ thể: Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc; Hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội.

Việc ra quyết định áp dụng biện pháp xóa bỏ các thông tin trái pháp luật hoặc thông tin sai sự thật trên không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo các trường hợp nêu trên thuộc thẩm quyền của Cục trưởng Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao thuộc Bộ Công an, Thủ trưởng cơ quan có thẩm quyền của Bộ Thông tin và Truyền thông.

 

Người thực hiện: Huỳnh Thị Kim Oanh – LexNovum Lawyers