Thỏa thuận không cạnh tranh – Lịch sử hình thành

Bàn luận pháp luật

Thỏa thuận không cạnh tranh – Lịch sử hình thành

LexNovum Lawyers

LexNovum Lawyers

08/04/2022

lich-su-thoa-thuan-canh-tranh

 

1414 – Thỏa thuận không cạnh tranh được ghi nhận xuất hiện từ thời Trung cổ (Thế kỷ 15 – gần 80 năm trước khi Colombus phát hiện ra châu Mỹ), điển hình là vụ việc của John Dyer xảy ra vào năm 1414. Theo đó thì John Dyer, tư cách là một người học việc, đã hứa sẽ không thực hiện công việc buôn bán của mình ở cùng thị trấn với người chủ cũ trong vòng 6 tháng. Tòa án đã tuyên thỏa thuận không cạnh tranh này vô hiệu với lý do người chủ đã không có bất kỳ khoản đáp lại nào đối với lời cam kết từ người học việc. Trong vụ việc của John Dyer, mối quan tâm hàng đầu của Tòa án đó là quyền kiếm sống của người học việc, sự phản đối của Tòa án đối với thỏa thuận không cạnh tranh trong vụ việc này mạnh mẽ đến mức Chủ tọa phiên tòa phải thốt lên:”[nguyên đơn] nên vào tù cho đến khi anh ta nộp phạt cho Nhà vua!” (Nguyên bản:“[the plaintiff] should go to prison until he had paid a fine to the King!”).

1621 – Khuynh hướng không ủng hộ thỏa thuận không cạnh tranh nêu trên được duy trì ổn định trong suốt 200 năm. Các trường hợp ngoại lệ của thỏa thuận không cạnh tranh bắt đầu xuất hiện vào năm 1621 (năm diễn ra Lễ tạ ơn đầu tiên của nước Mỹ), khi một thỏa thuận không cạnh tranh bị giới hạn trong phạm vi địa lý được thực thi trong vụ Broad kiện Jollyffe (Xem Alger kiện Thacher, 36 Mass. 51, 53 (1837)). Theo đó, các thỏa thuận hạn chế thương mại nói chung bị coi là vô hiệu; trong khi thỏa thuận chứa đựng những giới hạn về thời gian hoặc địa điểm hoặc con người, được xem là hợp lệ và có hiệu lực thi hành.

1711 – Gần 100 năm sau, phán quyết của vụ kiện Mitchel v. Reynolds, 24 Eng. Rep. 347 (Q.B. 1711) đã đưa những ngoại lệ nêu trên lên một tầm hiểu biết cao hơn, thiết lập một khuôn khổ mới làm tiền đề để các nhà nghiên cứu đi sâu vào phân tích về thỏa thuận không cạnh tranh. Cụ thể, Reynolds (bị đơn) cho Mitchel (nguyên đơn) thuê một tiệm bánh trong 5 năm. Là một phần của hợp đồng thuê, Reynolds đồng ý không cạnh tranh với Mitchel trong việc buôn bán bánh nướng trong thời hạn thuê và trong thị trấn St. Andrews Holborn. Nếu Reynolds kinh doanh như một thợ làm bánh trong thời hạn thuê và trong khuôn viên St. Andrews Holborn, Reynolds sẽ phải trả cho Mitchel một khoản tiền 50 bảng Anh. Mitchel kiện Reynolds vì cho rằng Reynolds vi phạm thỏa thuận không cạnh tranh khi đang giao dịch với tư cách là một thợ làm bánh. Reynolds lập luận rằng thỏa thuận không cạnh tranh trong lĩnh vực buôn bán bánh nướng đã cấu thành một hành vi hạn chế trái pháp luật đối với hoạt động buôn bán của anh ta và do đó Mitchel không thể thực thi thỏa thuận chống lại Reynolds. Mitchel đề nghị tòa từ chối lời bào chữa của Reynolds. Tòa án đã ra phán quyết có lợi cho ông Mitchel với lý giải rằng Ông Reynolds đã nhận được lợi ích tài chính từ tiền thuê nhà, các hạn chế được đưa ra trong thỏa thuận là có giới hạn và được mô tả cụ thể, cũng không gây ra tổn hại cho cộng đồng. Vụ án này đã thiết lập một nguyên tắc cơ bản về “tính hợp lý” cho các thỏa thuận không cạnh tranh và vẫn được các Tòa án áp dụng đến ngày nay.

1800 – Ý nghĩa kinh tế của thỏa thuận không cạnh tranh thực sự phát triển khi công nghệ mới đi kèm với cuộc Cách mạng Công nghiệp. Khi kinh doanh không còn giới hạn ở thị trường địa phương, và các công ty bắt đầu mở rộng ra thị trường quốc gia và quốc tế, tiếp xúc với các đối thủ mới. Hơn nữa, các công ty ngày càng quan tâm đến sự di chuyển của người lao động, và việc dời đi của một người lao động không chỉ đơn thuần là vấn đề kinh tế hay vật chất như trước nữa, mà là cơ hội kinh doanh bị tác động.

“A merchant or manufacture would soon find a rival in every one of his servants if he could not prevent them from using to his prejudice the knowledge they acquired in his employ. Engagements of this sort between masters and servants are not injurious restraints of trade, but securities necessary for those who engage in it. The effect of such contracts is to encourage rather than cramp the employment of capital in trade and the promotion of industry.”

Cho đến lúc này thì một số Tòa án có khuynh hướng bảo vệ người sử dụng lao động bằng việc cho phép sử dụng thỏa thuận không cạnh tranh nhưng trong chừng mực hợp lý của vụ Mitchel v. Reynolds đã đưa ra. Trong vụ kiện Horner v. Graves (1831), một trợ lý nha sĩ đã ký hợp đồng không hành nghề độc lập trong vòng 100 dặm tính từ địa phận của người chủ ban đầu. Ngay sau khi chấm dứt với người chủ của mình, người trợ lý đã phá vỡ thỏa thuận, và nha sĩ khởi kiện người trợ lý. Tuy nhiên, trong vụ án này thì Tòa đứng về phía bị đơn, giải thích rằng việc hạn chế hợp lý cũng phải tính đến lợi ích của công chúng. Từ quan điểm của công chúng, nha sĩ đã tìm cách giữ lại một dịch vụ có giá trị trong bán kính 100 dặm nơi hành nghề của mình để bảo vệ lợi ích bán thân nha sĩ. Tòa án xác định rằng gánh nặng đặt lên vai công chúng lớn hơn so với nhu cầu bảo vệ lợi ích của người sử dụng lao động trước đó và yêu cầu này quá rộng một cách bất hợp lý, nên không thể chấp nhận.

1900 – Sự cân nhắc lợi ích giữa người sử dụng lao động, người lao động và lợi ích công cộng tiếp tục kéo dài xuyên suốt thể kỷ 19. Khi các tòa án Anh hướng tới các chính sách ủng hộ người sử dụng lao động, các tòa án Mỹ bắt đầu phát triển cơ quan thông luật của riêng họ. Năm 1851, Lawrence kiện Kidder, một vụ án trước Tòa án Tối cao New York, đã thiết lập một tiền lệ rằng ưu tiên của bang là ngăn chặn các công ty độc quyền. Tòa lý luận rằng trong chừng mực có thể, nhà nước phải đảm bảo rằng mọi công dân đều được phép làm việc. Do đó, tòa án coi các thỏa thuận cấm các cá nhân hành nghề dựa trên ranh giới tiểu bang hoặc lãnh thổ là bất hợp pháp. Ngoài các thỏa thuận không cạnh tranh trong việc mua bán doanh nghiệp, các thỏa thuận không cạnh tranh trong bối cảnh việc làm cũng bắt đầu được thực thi vào thế kỷ 19 nếu chúng được coi là hợp lý. Các thẩm phán viện dẫn cả hai hệ tư tưởng phản ánh và tiến bộ của chủ nghĩa tự do kinh tế tự do hợp đồng trong việc duy trì tính hợp pháp của các thỏa thuận không cạnh tranh. Xâm phạm quyền tự do của người lao động, do quyền lực thương lượng không bình đẳng, cũng như trở ngại có thể có của chính sách công, đã bị lu mờ bởi giả định rằng các bên được tự do tham gia vào bất kỳ hợp đồng nào mà họ thấy phù hợp trong nền kinh tế tự do (Packer & Cleary, 2006). Không quan tâm đến sự chênh lệch về khả năng thương lượng giữa các bên tham gia hợp đồng phản ánh sự xuất hiện sớm của chủ nghĩa tư bản và sự thống trị của các nhà tư bản đối với người lao động.

2000 – nay

Hiện tại, ngoại trừ California, Oklahoma  và North Dakota nơi thỏa thuận không cạnh tranh bị cấm tuyệt đối, Các tiểu bang của Hoa Kỳ đều áp dụng thỏa thuận không cạnh tranh vì họ công nhận cả tầm quan trọng của việc bảo vệ lợi ích kinh doanh hợp pháp và mức độ nghiêm trọng của việc xâm phạm quyền tự do của người lao động. Do đó, hầu hết đều kiểm tra tính “hợp lý” của thỏa thuận không cạnh tranh và thỏa thuận không cạnh tranh có thể có hiệu lực nếu bảo vệ lợi ích kinh doanh, sự hạn chế là không quá mức cần thiết và nó không vi phạm chính sách công (Malsberger, Carr, Pedowitz, & Tate, 2013). Nhưng cũng thật sự chưa rõ ràng vì còn có nhiều câu hỏi được đặt ra: Lợi ích kinh doanh có thể bảo vệ là gì và những hạn chế nào được coi là không thể thi hành vì nó quá mức cần thiết hay vi phạm chính sách công của nhà nước? Câu trả lời những điều này rất khác nhau tùy theo tiểu bang, điều này tạo ra sự khác biệt đáng kể trong môi trường pháp lý liên quan đến việc thực thi thỏa thuận không cạnh tranh.

Trong khoảng từ năm 2007 đến 2013, các bang bắt đầu đánh giá lại về thỏa thuận không cạnh tranh. Cụ thể, vào năm 2007 (năm iPhone đầu tiên được phát hành), Oregon đã lần đầu tiên thực hiện một thay đổi quan trọng mang tính đột phá đối với luật chống cạnh tranh của mình, đó là yêu cầu phải thông báo trước cho nhân viên rằng sẽ phải ký thỏa thuận không cạnh tranh, nêu rõ về ngưỡng bồi thường tối thiểu và việc áp dụng thỏa thuận không cạnh tranh cho những nhân viên có mức lương dưới mức ấn định (và một số người khác) sẽ phải trả cho họ một số tiền xác định trong thời gian thỏa thuận không cạnh tranh.

Sau đó, vào năm 2009, Massachusetts bắt đầu một quá trình kéo dài một thập kỷ để cập nhật luật chống cạnh tranh của mình, bắt đầu với hai dự luật được đệ trình (gần như đồng thời) – một để cấm tất cả các thỏa thuận không cạnh tranh với người lao động và một để sửa đổi luật (dựa trên những gì Oregon đã thực hiện). Bắt đầu từ khoảng thời gian đó, Georgia bắt đầu thực hiện các thay đổi đối với luật chống cạnh tranh của mình, bao gồm việc sử dụng cuộc trưng cầu dân ý trên toàn tiểu bang, để giúp việc thi hành luật chống cạnh tranh ở Georgia dễ dàng hơn. Các sáng kiến ​​của Massachusetts và Georgia đã nhận được sự quan tâm của báo chí và lan rộng sang rất nhiều bang khác.

Trong bối cảnh đó, vào năm 2014, một chuỗi cửa hàng bánh sandwich có tên là Jimmy John’s đã đưa ra thông tin và tạo ra một “cơn bão lửa” khi họ được tiết lộ là đã yêu cầu nhân viên trong các cửa hàng sandwich của mình ký tên vào thỏa thuận không cạnh tranh. Vụ việc này khiến cả tổng chưởng lý tiểu bang ở Illinois và New York cùng tham gia giải quyết. Theo đó, Jimmy John’s đã đồng ý trả 100.000 đô la và loại bỏ các điều khoản không cạnh tranh khỏi các thỏa thuận tuyển dụng mới của mình, theo một thỏa thuận mà tổng chưởng lý Illinois đã công bố và “Thỏa thuận dàn xếp giúp đảm bảo người lao động Illinois có quyền tự do thay đổi công việc để tìm kiếm mức lương tốt hơn, phát triển sự nghiệp và cải thiện cuộc sống của họ,” tổng chưởng lý Illinois Lisa Madigan cho biết trong một tuyên bố. “Công nhân trong các cửa hàng bánh sandwich của Jimmy John nên biết rằng họ không phải tuân theo những thỏa thuận không công bằng và không thể thực thi này”. Thỏa thuận yêu cầu Jimmy John’s thông báo cho người lao động rằng các thỏa thuận là không thể thực thi và công ty sẽ không thực thi các thỏa thuận đó. Công ty cũng đồng ý thông báo cho các đơn vị nhận quyền tại Illinois của mình để làm điều tương tự. Jimmy John’s cũng sẽ bắt đầu xóa các quy định không cạnh tranh khỏi các yêu cầu tuyển dụng mới và đảm bảo rằng bất kỳ giao dịch nào như vậy đều tuân thủ luật tiểu bang trong tương lai. Việc lạm dụng thỏa thuận không cạnh tranh gây xôn xao dư luận được phản ánh bởi vấn đề của Jimmy John và một số trường hợp khác vào thời điểm đó, cùng với nghiên cứu học thuật đang phát triển và các phát kiến lập pháp của Georgia và Massachusetts, đã thúc đẩy các nỗ lực lập pháp liên bang vào năm 2015 về thỏa thuận không cạnh tranh.

Vào tháng 1 năm 2020, sau khi tiếp nhận rất nhiều các công trình nghiên cứu và đề xuất, FTC bắt đầu xem xét sự phù hợp của việc điều chỉnh thỏa thuận không cạnh tranh. Theo đó, vào ngày 9 tháng 1 năm 2020, FTC đã tiến hành Hội thảo “Các điều khoản không cạnh tranh tại nơi làm việc: Kiểm tra các vấn đề về chống độc quyền và bảo vệ người tiêu dùng”.

Vào tháng 12 năm 2020, Tổng thống Biden đã công bố, như một phần trong cương lĩnh của mình, kế hoạch sau đối với thỏa thuận không cạnh tranh (lược hiểu: Trong nền kinh tế Mỹ, các công ty cạnh tranh nhau. Người lao động cũng có thể cạnh tranh. Với tư cách là tổng thống, Biden sẽ làm việc với Quốc hội để loại bỏ tất cả các thỏa thuận không cạnh tranh, ngoại trừ một số ít nhất thiết thực sự cần thiết để bảo vệ một danh mục giới hạn các bí mật thương mại đã được xác định):

Eliminate non-compete clauses and no-poaching agreements that hinder the ability of employees to seek higher wages, better benefits, and working conditions by changing employers. In the American economy, companies compete. Workers should be able to compete, too. But at some point in their careers, 40% of American workers have been subject to non-compete clauses. If workers had the freedom to move to another job, they could expect to earn 5% to 10% more – that’s an additional $2,000 to $4,000 for a worker earning $40,000 each year. These employer-driven barriers to competition are even imposed within the same company’s franchisee networks. For example, large franchisors like Jiffy Lube have no-poaching policies preventing any of their franchisees from hiring workers from another franchisee. As president, Biden will work with Congress to eliminate all non-compete agreements, except the very few that are absolutely necessary to protect a narrowly defined category of trade secrets, and outright ban all no-poaching agreements.

Vào ngày 9 tháng 7 năm 2021, Tổng thống Biden đã ban hành Lệnh hành pháp về thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế Mỹ “khuyến khích [Chủ tịch FTC] xem xét làm việc với các thành viên còn lại của Ủy ban để thực hiện quyền quản lý theo luật định của FTC theo Đạo luật của Ủy ban Thương mại Liên bang để hạn chế việc sử dụng không công bằng các điều khoản không cạnh tranh và các điều khoản hoặc thỏa thuận khác có thể hạn chế sự di chuyển của người lao động một cách không công bằng. ”

Những nỗ lực của liên bang và tiểu bang nhằm hạn chế việc sử dụng các thỏa thuận không cạnh tranh của người lao động đã đạt được những thành tựu đáng kể trong những năm gần đây và năm 2021 cũng không phải là ngoại lệ. Colorado, Illinois, Nevada, Oregon và Washington, D.C. đã thông qua hoặc ban hành luật mới hạn chế các thỏa thuận không cạnh tranh vào năm 2021. Các xu hướng chung về luật được đề xuất trong năm qua bao gồm: (1) cấm hoàn toàn các thỏa thuận không cạnh tranh hoặc với một số nhân viên nhất định, chẳng hạn như công nhân lương thấp hoặc chuyên gia y tế; (2) yêu cầu người sử dụng lao động cung cấp thông báo trước cho nhân viên về bất kỳ thỏa thuận không cạnh tranh nào; (3) thỏa thuận không cạnh tranh bị vô hiệu khi người lao động bị chấm dứt hợp đồng trong một số trường hợp nhất định; và (4) yêu cầu người sử dụng lao động bồi thường thiệt hại bằng tiền, hình phạt theo luật định và/hoặc phí luật sư tham gia hoặc cố gắng thực thi các thỏa thuận không cạnh tranh bất hợp pháp. Chi tiết thông tin theo dõi thêm tại: https://www.akingump.com/a/web/q8oZeB1EXhFh1u9KDDN81C/3yxJjf/labor-and-employment-alert.pdf

 

Nguồn:

https://faircompetitionlaw.com/2021/10/11/a-brief-history-of-noncompete-regulation/

https://tagsearch.com/insights/articles/a-current-look-at-the-noncompete-agreement-one-of-the-worlds-oldest-business-practices

https://cite.case.law/mass/36/51/#p53

https://itlaw.fandom.com/wiki/Non-compete_clause

https://www.akingump.com/a/web/q8oZeB1EXhFh1u9KDDN81C/3yxJjf/labor-and-employment-alert.pdf

https://www.akingump.com/en/news-insights/noncompete-laws-2021-year-in-review.html

https://joebiden.com/empowerworkers/

 

Người thực hiện: LexNovum Lawyers