Bạn hỏi – Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội trả lời
Theo công văn 2661/LĐTBXH-PC về việc giải đáp một số chính sách hỗ trợ người lao động, người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 được Bộ Lao động – Thương Binh và Xã hội (“LĐTBXH”) ban hành ngày 13/8/2021, để hỗ trợ quá trình thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19, Bộ LĐTBXH tiến hành biên soạn nội dung Hỏi – Đáp liên quan tới các nhóm chính sách dựa trên những câu hỏi phổ biến, những vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện của các địa phương.
Nội dung Hỏi – Đáp được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ và sẽ được cập nhật liên tục, thường xuyên.
Dưới đây là một số câu hỏi đã được Bộ LĐTBXH giải đáp mà LexNovum Lawyers thu thập được:
I. Nhóm câu hỏi về chính sách tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ việc không lương
Câu 1:Thành phần hồ sơ đề nghị hỗ trợ đối với người lao động tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương bao gồm “văn bản thỏa thuận tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương”. Tuy nhiên, tình hình dịch bệnh nên người lao động và người sử dụng lao động không thể gặp mặt để ký văn bản thỏa thuận, vậy có thể xử lý vấn đề này như thế nào cho phù hợp để người lao động được hưởng chính sách hỗ trợ?
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã có văn bản số 2558/LĐTBXH-VP ngày 05/8/2021 về việc phối hợp triển khai Nghị quyết số 68/NQ-CP của Chính phủ. Tại văn bản, Bộ đã hướng dẫn thành phần hồ sơ đề nghị hỗ trợ đối với người lao động tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương theo quy định tại khoản 1 Điều 15 Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ được thực hiện như sau:
– Trường hợp người sử dụng lao động và người lao động có văn bản thỏa thuận tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương thì sử dụng văn bản thỏa thuận đó;
– Trường hợp dịch bệnh hoặc nguyên nhân bất khả kháng không thể thỏa thuận bằng văn bản, hai bên người sử dụng lao động và người lao động có thể thỏa thuận bằng các hình thức khác (qua điện thoại, tin nhắn, thư điện tử,…). Khi có sự thống nhất thỏa thuận về việc tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương giữa hai bên thì người sử dụng lao động ghi rõ cách thức thỏa thuận này vào cột ghi chú của Mẫu số 05 ban hành kèm theo Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg và chịu trách nhiệm về tính chính xác của nội dung thỏa thuận.
Câu 2: Trường hợp người lao động đã được giải quyết theo mức hỗ trợ là 1.855.000 đồng/người (tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương từ 15 ngày liên tục trở lên đến dưới 30 ngày), nếu sau đó tiếp tục phải tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương với thời gian từ 30 ngày liên tục trở lên có được xem xét giải quyết để hưởng mức hỗ trợ chênh lệch (1.855.000 đồng) không?
Nghị quyết số 68/NQ-CP và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg quy định nguyên tắc: Mỗi đối tượng chỉ được hưởng một lần trong một chính sách hỗ trợ; Người lao động được hỗ trợ một lần bằng tiền chỉ được hưởng một chế độ hỗ trợ.
Trường hợp người lao động đã được giải quyết theo mức hỗ trợ là 1.855.000 đồng/người (tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương từ 15 ngày liên tục trở lên đến dưới 30 ngày), nếu sau đó tiếp tục phải tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương với thời gian từ 30 ngày liên tục trở lên thì có thể nộp bổ sung hồ sơ để được hỗ trợ bổ sung phần chênh lệch. Trường hợp này không trái với các nguyên tắc nêu trên và quy định hiện hành.
Câu 3: Doanh nghiệp nằm trong khu vực bị cách ly y tế nên khó khăn về cung ứng nguyên vật liệu, xuất hàng buộc phải tạm dừng hoạt động hoặc doanh nghiệp không có điều kiện để bố trí “3 tại chỗ”/ “1 cung đường – 2 địa điểm” thì có được coi là “Doanh nghiệp phải tạm dừng hoạt động theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phòng, chống dịch COVID-19” để được hưởng chính sách hỗ trợ tại Quyết định 23/2021/QĐ-TTg không?
Trường hợp 1: Với những doanh nghiệp không đáp ứng được điều kiện “3 tại chỗ”/ “1 cung đường – 2 địa điểm” và phải dừng hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời gian thực hiện quy định đó của địa phương được xem là phải tạm dừng hoạt động theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phòng, chống dịch COVID-19.
Trường hợp 2: Doanh nghiệp nằm trong khu vực bị cách ly y tế nên khó khăn về cung ứng nguyên vật liệu, xuất hàng buộc phải tạm dừng hoạt động có thể được xem là phải tạm dừng hoạt động theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phòng, chống dịch COVID-19.
Trong thực tiễn, tùy thuộc vào công tác chỉ đạo chống dịch của mỗi địa phương là tương đối khác nhau theo đặc thù riêng nên cần phải có cách hiểu linh hoạt và phải được thực hiện một cách đơn giản và hiệu quả nhất với mục tiêu hỗ trợ tối đa cho doanh nghiệp, người lao động gặp khó khăn.
II. Nhóm câu hỏi về chính sách ngừng việc
Câu 1: Một trong các điều kiện để hưởng chính sách hỗ trợ ngừng việc theo Điều 17 Quyết định số 23/2021 QĐ-TTg là “người lao động thuộc đối tượng phải cách ly y tế hoặc trong các khu vực bị phong tỏa theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Vậy quy định “trong khu vực bị phong tỏa” được hiểu như thế nào? Là nơi làm việc và/ hoặc nơi cư trú của người lao động trong các khu vực bị phong tỏa theo yêu cầu của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có đúng không? Hoặc địa phương chỉ ghi “giãn cách theo Chỉ thị 16 ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ hoặc nằm trong vùng cách ly y tế phòng chống dịch Covid-19” có được tính ra đủ điều kiện nêu trên hay không?
Quy định “người lao động thuộc đối tượng phải cách ly y tế hoặc nằm trong các khu vực bị phong tỏa theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền” tại khoản 1 Điều 17 Quyết định số 23/2021 QĐ- TTg được hiểu là nơi làm việc và/hoặc nơi cư trú của người lao động trong các khu vực được phong tỏa theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm cả “giãn cách theo Chỉ thị 16 ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ” hoặc nằm trong vùng cách ly y tế phòng chống dịch Covid-19”.
Do tình hình diễn biến phức tạp và khó lường, việc hiểu và áp dụng chính sách ở mỗi địa phương cần được thực hiện sáng tạo, linh hoạt và chủ động, nhằm đảm bảo phù hợp với công tác chỉ đạo phòng, chống dịch bệnh ở mỗi địa phương và hỗ trợ nhanh chóng, đúng đối tượng cho người dân, người lao động trên địa bàn.
Câu 2: Đối với chính sách hỗ trợ người lao động ngừng việc theo Nghị quyết 68/NĐ-CP và Quyết định số 23/2021/ QĐ-TTg, việc chi hỗ trợ người lao động ngừng việc có được chuyển tiền trực tiếp cho người lao động (không thông qua người sử dụng lao động)? Nếu được, đề nghị điều chỉnh, bổ sung cột tài khoản của người lao động nhận hỗ trợ (tên tài khoản, số tài khoản, tên Ngân hàng) vào biểu mẫu số 06, cụ thể bổ sung cột thông tin số tài khoản người lao động (đối với người lao động không có số tài khoản thì doanh nghiệp thực hiện chi trả).
Đây là vấn đề tổ chức thực hiện QĐ 23/2021/ QĐ-TTg. Nếu người sử dụng lao động và cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại địa phương cùng đồng thuận chuyển tiền trực tiếp cho người lao động thì hoàn toàn có thể thực hiện được, không trái quy định của pháp luật, cụ thể:
Biểu số 06 kèm theo Quyết định 23/2021/ QĐ-TTg bao gồm thông tin bắt buộc mà người sử dụng lao động phải thực hiện. Việc bổ sung các thông tin khác (ngoài các thông tin bắt buộc theo Mẫu số 6) có thể được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của người sử dụng lao động.
Trong trường hợp người sử dụng lao động có nhu cầu tự nguyện chuyển tiền trực tiếp cho người lao động theo danh sách thì người sử dụng lao động có thể bổ sung thêm cột tài khoản của người lao động nhận hỗ trợ (tên tài khoản, số tài khoản, tên Ngân hàng) trong biểu mẫu số 06 kèm theo Quyết định 23/2021/ QĐ-TTg và đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền hỗ trợ chuyển tiền trực tiếp cho người lao động. Trong trường hợp này, nếu các cơ quan địa phương đồng thuận với đề nghị của người sử dụng lao động thì thực hiện chuyển tiền trực tiếp cho người lao động, việc thực hiện này không trái với quy định của pháp luật.
=> Người sử dụng lao động hoàn toàn có thể bổ sung thêm thông tin (số tài khoản) nhận hỗ trợ của Người lao động để Cơ quan nhà nước chuyển tiền hỗ trợ trực tiếp cho Người lao động (trường hợp Cơ quan nhà nước tại địa phương đồng ý).
Câu 3: Một số người lao động khi thực hiện cách ly y tế tại gia đình, nếu theo quyết định cách ly của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì người lao động không đủ 14 ngày cách ly y tế thực tế. Tuy nhiên, sau thời gian cách ly theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người lao động tự ý nghỉ ở nhà 3 – 5 ngày (nếu tính cả số ngày người lao động tự y nghỉ việc thì mới đúng 14 ngày liên tục trở lên). Vậy trong trường hợp này có được tính cả thời gian tự ý nghỉ để giải quyết chế độ theo chương V (chính sách ngừng việc) của Quyết định 23/2021/ QĐ-TTg không?
Theo quy định tại Điều 17 Quyết định số 23/2021/ QĐ-TTg thì một trong các điều kiện để hưởng hỗ trợ là: ngừng việc và thuộc đối tượng phải cách ly y tế hoặc trong các khu vực bị phong tỏa theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ 14 ngày trở lên. Thời gian được hiểu là đồng thời thời gian cách ly y tế/ trong các khu vực bị phong tỏa (theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền) từ 14 ngày trở lên và thời gian ngừng việc (theo khoản 3 Điều 99 Bộ luật lao động) từ 14 ngày trở lên.
Do vậy, trong trường hợp thời gian cách ly y tế theo quyết định cách ly của cơ quan nhà nước có thẩm quyền không đủ 14 ngày thì không thuộc đối tượng để giải quyết chế độ theo chương V (chính sách ngừng việc) của Quyết định 23/2021/ QĐ-TTg.
III. Nhóm câu hỏi về tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
Câu 01: Đề nghị hướng dẫn về các nội dung được sử dụng đối với số tiền có được từ việc giảm đóng vào quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động phòng, chống COVID-19, cụ thể như thế nào? Người sử dụng lao động có thể sử dụng số tiền này để chi những nội dung như: Trả phí test nhanh Covid cho người lao động, mua mùng mền, ghế xếp, vật dụng phục vụ sản xuất “3 tại chỗ”, dụng cụ phòng chống dịch, khẩu trang, tấm chắn, sát khuẩn không?
Nghị quyết số 68/NQ – CP và Quyết định số 23/2021/QĐ – TTg không quy định cứng nhắc các nội dung chi. Vì vậy người sử dụng lao động chủ động quyết định nội dung chi hợp pháp trên cơ sở bảo đảm “hỗ trợ toàn bộ số tiền có được từ việc giảm đóng Quỹ Bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động phòng chống đại dịch COVID-19” đúng theo Nghị quyết số 68/NQ-CP và Quyết định số 23/2021/QĐ – TTg.
Đối với các nội dung chi cụ thể tại câu hỏi trên (trả phí test nhanh covid cho người lao động, mua mùng mền, ghế xếp, vật dụng phục vụ sản xuất “3 tại chỗ”, dụng cụ phòng chống dịch, khẩu trang, tấm chắn, sát khuẩn) để hỗ trợ cho người lao động phòng chống Covid 19 là không trái với các quy định hiện hành.
Câu 02: Mục tiêu và lợi ích của người sử dụng lao động và người lao động khi thực hiện chính sách giảm mức đóng của người sử dụng lao động vào quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp?
Chính sách này được xây dựng nhằm mục tiêu hỗ trợ, góp phần giảm bớt khó khăn người sử dụng lao động và người lao động trước tác động tiêu cực của đại dịch Covid – 19 đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, theo nguyên tắc chia sẻ rủi ro, nhưng vẫn bảo đảm cân đối quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Đối tượng hướng tới của chính sách là toàn bộ người sử dụng lao động và người lao động đang áp dụng chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (trừ cán bộ, công chức, viên chức, người thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, người lao động trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập được hưởng lương từ ngân sách nhà nước).
Theo quy định pháp luật hiện hành, người sử dụng lao động đang đóng cho người lao động vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp với mức từ 0,3% – 0,5% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội. Như vậy, khi áp dụng chính sách, giảm mức đóng về 0 đồng, trong 12 tháng (từ ngày 01 tháng 7 năm 2021 đến hết ngày 30 tháng 6 năm 2022), ước tính người sử dụng lao động có thêm tổng số khoảng trên 3,7 ngàn tỷ đồng để hỗ trợ cho người lao động phòng, chống COVID – 19.
Câu 03: Thủ tục thực hiện chính sách giảm mức đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghiệp theo Nghị quyết 68/NQ-CP và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg có đơn giản không? Trong thời gian thực hiện chính sách này (mức đóng bằng 0 đồng), thì người lao động nếu bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp có bị mất chế độ không? Hay được giữ nguyên như quy định hiện hành?
Chính sách giảm mức đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo Nghị quyết 68/NQ-CP và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg không phát sinh thêm bất kỳ thủ tục hành chính nào. Người sử dụng lao động vẫn thực hiện đăng ký tham gia vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của pháp luật hiện hành nhưng áp dụng mức đóng bằng 0 đồng.
Thời gian đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo chính sách này (từ ngày 01 tháng 7 năm 2021 đến hết ngày 30 tháng 6 năm 2022) vẫn được tính hưởng chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Mọi chế độ đối với người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong thời gian này vẫn được đảm bảo theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội và pháp luật an toàn, vệ sinh lao động.
IV. Nhóm câu hỏi về lao động tự do
Câu 1: Người lao động làm việc cho người sử dụng lao động nhưng các đơn vị không thực hiện hoặc thực hiện chưa đúng pháp luật lao động (không ký hợp đồng lao động, không tham gia bảo hiểm xã hội…) sẽ không thỏa mãn điều kiện để thụ hưởng các chính sách theo Quyết định số 23/2021/ QĐ-TTg, vậy địa phương dự kiến đưa đối tượng này vào chính sách số 12 của Nghị quyết số 68/ NQ-CP (một số đối tượng đặc thù khác) để thực hiện hỗ trợ có được không. Hay trách nhiệm hỗ trợ này thuộc về người sử dụng lao động?
Theo quy định pháp luật về lao động, bảo hiểm xã hội, trường hợp người sử dụng lao động không ký hợp đồng lao động, tham gia bảo hiểm xã hội cho đối tượng lao động bắt buộc tham gia là trái quy định. Trong bối cảnh đại dịch Covid – 19, nhằm chia sẻ khó khăn, hỗ trợ người lao động, địa phương có thể xem xét, hỗ trợ nhóm lao động này căn cứ quy định tại khoản 12, mục II Nghị quyết số 68/NQ-CP, đồng thời yêu cầu người sử dụng lao động thực hiện các quy định liên quan về bảo hiểm xã hội, hợp đồng lao động, tiền lương, bảo hiểm thất nghiệp… để bảo đảm quyền và nghĩa vụ cho người lao động.
Câu 02. Địa phương được quy định chính sách hỗ trợ lao động tự do một lần hay nhiều lần? Nghị quyết 68/NQ-CP và Quyết định 23/2021/QĐ-TTg đều quy định nguyên tắc: mỗi đối tượng chỉ được hỗ trợ một lần trong một chính sách hỗ trợ. Vậy địa phương có được quy định lao động tự do được hỗ trợ nhiều lần (mỗi lần 1 mức giống nhau hoặc mỗi lần lại có các mức khác nhau) tương ứng với các đợt dịch khác nhau không?
Theo tinh thần chung, Nghị quyết 68/NQ-CP và Quyết định số 23/2021/QĐ – TTg giao cho các địa phương quy định chính sách hỗ trợ cho lao động tự do, tùy thuộc vào điều kiện, đặc điểm, bối cảnh dịch bệnh của từng địa phương (ngân sách, số lượng lao động tự do, dịch bệnh ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng,…). Nghị quyết 68/NQ-CP và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg quy định nguyên tắc mỗi đối tượng chỉ được một lần trong 1 chính sách hỗ trợ.
Tuy nhiên, do tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp và khó lường, việc hiểu và áp dụng các chính sách ở mỗi địa phương cần được thực hiện sáng tạo, linh hoạt và chủ động, nhằm đảm bảo phù hợp với công tác chỉ đạo phòng, chống dịch bệnh ở mỗi địa phương và hỗ trợ nhanh chóng, đúng đối tượng cho người dân, người lao động trên địa bàn. Trường hợp địa phương xét thấy cần thiết phải hỗ trợ nhiều lần cho lao động tự do thì địa phương áp dụng các quy định tại Luật tổ chức chính quyền địa phương và Luật Ngân sách Nhà nước để quy định chính sách cho lao động tự do (đối tượng, điều kiện, mức hưởng, số lần hưởng,…).
Người thực hiện: Nhi Phan – LexNovum Lawyers